Những đồng tiền cơ bản được giao dịch trên thị trường Ngoại hối
Đô-la Mỹ (USD)
Đô-la Mỹ là đồng tiền chính trên thị trường thế giới. Các đồng tiền khác cuối cùng đều được định gía trên cơ sở cặp tiền tệ với đồng đô-la Mỹ. Vai trò và ý nghĩa của đồng đô-la Mỹ thường phát huy mạnh mẽ nhất trong những thời kỳ xảy ra bất ổn chính trị. Điều này đã được chứng minh trong cuộc khủng hoảng ở ch}u Á giai đoạn 1997-1998.
Đô-la Mỹ trở thành ngoại tệ chính kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, khi hệ thống quản lý tiền tệ Bretton Woods dựa trên tiêu chuẩn vàng ra đời. Vào thời điểm đó, 3⁄4 lượng vàng dự trữ của thế giới đều tập trung tại Mỹ. Tất cả c|c đồng tiền đều được định giá bằng đô-la Mỹ, và đến lượt mình, đồng đô-la Mỹ lại được chuyển thành vàng với gi| 35 đô-la một ounce. Tỷ giá cố định giữa vàng và đô-la Mỹ được duy trì cho đến năm 1971 khi Mỹ không còn khả năng đảm bảo việc chuyển đổi đồng đô-la của mình thành vàng nữa do khủng hoảng kinh tế. Kể từ đó, tiền tệ cũng trở thành hàng hóa, và chúng có thể được mua bán trên thị trường liên ngân hàng với giá cả bởi thị trường quyết định giống như c|c loại hàng hóa khác. Giá của chúng do cung và cầu quyết định do thị trường có tính chất mở cửa và tự do. Ngày nay, khoảng 50-61% dự trữ của ngân hàng trung ương các quốc gia là đồng đô-la Mỹ. Đây vừa là phương tiện thanh toán toàn cầu, vừa là một công cụ đầu tư, vừa là tấm lá chắn tiền tệ cho các quốc gia trong trường hợp xảy ra khủng hoảng tài chính và chính trị. Sự xuất hiện của đồng euro (đồng tiền chung châu Âu) vào năm 1999 chỉ làm giảm đi đôi chút sức ảnh hưởng của đồng đô-la Mỹ. Liên minh đồng đô-la bao gồm đồng tiền của các quốc gia ở Bắc Mỹ và vùng vịnh Ca-ri-bê. Nó cũng bao gồm cả đồng đô-la Đ{i Loan, đồng won Hàn Quốc, đô-la Singapore, v{ đô-la Hồng Kông bởi những đồng tiền này đều gắn chặt với đồng đô-la Mỹ.
€ Euro (EUR)
Euro là đồng tiền có tổng giá trị lưu thông lớn thứ hai thế giới. Năm 1979, Liên minh châu Âu cho ra đời Liên minh tiền tệ chung châu Âu, ECU, v{ đồng ECU ra đời trên cơ sở 12 đồng tiền của các quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất trong Liên minh. Hiệp định
Maastricht xác định rổ ngoại tệ tương ứng như sau:
ECU = 30,1% đồng Mác Đức (DEM) + 19% đồng Franc Pháp (FRF) + 13% đồng Bảng Anh (GBP) + 10,2% đồng Lia Italia (ITL) + 9,4% đồng Guilder Hà Lan (NGL) + 7,6% đồng Franc Bỉ (BEF) + 5,3% đồng Peseta Tây Ban Nha (ESP) + 2,4% đồng Krone Đan Mạch (DKK) + 2,7% các đồng tiền còn lại. Euro là đồng tiền độc lập, ra đời vào năm 1999 và thay thế đồng ECU với tỷ giá trao đổi 1:1. Cặp tiền tệ EURUSD được niêm yết lần đầu tiên với tỷ giá 1,1850 đô-la Mỹ một euro. Các đồng giấy bạc và tiền xu euro ra đời vào năm 2002. Kể từ đó euro chính thức trở thành một loại tiền tệ của thế giới. Khối tiền tệ euro bao gồm khu vực sử dụng đồng euro, đồng franc Thụy Sĩ về tiền tệ của các nước vùng Scandinavi. Tổng giá trị đồng euro đang lưu thông đã đạt 610 tỷ vào năm 2006, lần đầu tiên trong lịch sử vượt qua đồng đô-la Mỹ. Cựu Giám đốc Cục dự trữ Liên bang Mỹ Alan Greenspan đã từng tuyên bố vào tháng 8 năm 2007 rằng đồng euro nên thay thế đồng đô-la trong vai trò ngoại tệ dự trữ, hoặc ít nhất cũng trở thành một lựa chọn khác cho các quốc gia ngoài đồng đô-la Mỹ. Tuy nhiên, thực tế là cho đến cuối năm 2006, 65,7% dự trữ ngoại tệ của thế giới vẫn ở dưới dạng đồng đô-la Mỹ, chỉ có 25,2% là đồng euro. Sự cách biệt về kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực đồng euro cũng như tỷ lệ thất nghiệp cao và sự ngần ngại của chính phủ cácnước này trong việc thực hiện cải c|ch cơ cấu đã tác động tiêu cực lên sự ổn định của đồng euro.
Yên Nhật (JPY)
Đồng Yên Nhật đứng vị trí thứ ba về khối lượng giao dịch và tính phổ biến đối với các nhà kinh doanh ngoại hối. Giá trị lưu thông của đồng Yên không nhiều như đồng đô-la Mỹ và euro, nhưng xét về tính thanh khoản thì nó không có đối thủ, một phần do tổng giá trị
giao dịch thực tế trong c|c chu trình trao đổi kinh tế trong khu vực là rất lớn nhưng chủ yếu là nhờ Nhật Bản có giá trị xuất khẩu khổng lồ. Các keiretsu của Nhật Bản ‒ các tập đoàn tài chính công nghiệp lớn ‒ có ảnh hưởng rất sâu sắc tại quốc gia này.
Chính phủ Nhật Bản đã theo đuổi chính sách lãi suất ngân hàng bằng 0 kể từ năm 1995. Theo đó Ng}n h{ng Trung ương Nhật Bản luôn giữ lãi suất cơ bản ở mức gần 0% nhằm kích
thích tăng trưởng kinh tế. Lãi suất này đã từng đạt mức thấp 0,15% sau nhiều lần cắt giảm, nhưng sau đó lại tăng mạnh lên 0,25%. Đến năm 2007 nó đ~ tăng lên 0,5%. Chính sách này dẫn đến một loại hình đầu cơ mới, đầu cơ v{o sự chênh lệch lãi suất giữa các loại tiền tệ
khác nhau (carry trade). Lợi nhuận có được là nhờ sự khác biệt giữa lãi suất cơ bản thấp của đồng Yên và lãi suất cao hơn của c|c đồng tiền khác. Các nhà kinh doanh sẽ đi vay đồng Yên để mua các loại tiền tệ có lãi suất cao hơn như đô-la New Zealand hay đô-la Australia. Sự chênh lệch lãi suất có thể cho lợi nhuận rất lớn sau một thời gian dài. Tính tổng số, đã có trên một nghìn tỷ Yên Nhật được vay để thực hiện đầu cơ chênh lệch lãi suất trong thời kỳ hoàng kim của hoạt động này. Nó dẫn đến tỷ giá vô cùng thấp của đồng Yên so với c|c đồng tiền khác. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, tính đến tháng Hai năm 2007, đồng Yên đã bị định giá thấp hơn so với đồng đô-la khoảng 15% và trên 40% so với đồng euro. Đồng Yên trước nay vẫn rất nhạy cảm với biến động của chỉ số chứng khoán Nikkei cũng như biến động trên thị trường bất động sản.
£ Bảng Anh (GBP)
Đồng bảng Anh từng là đồng tiền chính của thế giới cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ Hai kết thúc, khi nó từng bước nhường vai trò n{y cho đồng đô-la Mỹ. Từ tiếng lóng vẫn thường được sử dụng để chỉ đồng Bảng Anh – cable (có nghĩa là dây cáp) – bắt nguồn từ việc sử dụng điện tín có dây để thực hiện lệnh chuyển tiền trong hoạt động thanh toán và hối đối vào thời kỳ mà tất cả các đồng tiền đều được quy đổi theo đồng bảng Anh.
Đồng bảng Anh từng là một phần của hệ thống trao đổi tiền tệ châu Âu trong vòng 2 năm 1990-1992 và được gắn chặt với đồng M|c Đức. Điều này đã có những tác động tích cực lên đồng Bảng. Tuy nhiên, tình thế thay đổi vào năm 1992 sau khi Vương quốc Anh bị buộc phải rút khỏi cơ chế tiền tệ châu Âu. Phần lớn các nhà kinh tế học đều cho rằng thời kỳ giá trị đồng Bảng sụt giảm đã có tác động tích cực lên nền kinh tế Vương quốc Anh.
Đồng Bảng Anh đáng ra đã trở thành một phần của đồng tiền chung châu Âu – Euro vào năm 2000, nhưng khi thực hiện trưng cầu dân ý, người dân của quốc gia này đã cực lực phản đối việc đó. Trong suốt thời gian d{i, đồng Bảng v{ đồng euro đã được quy đổi ngang giá, song tình thế đã thay đổi vào năm 2006. Lạm ph|t gia tăng tại Anh quốc đã buộc Ngân hàng Trung ương của nước n{y tăng l~i suất cơ bản dẫn đến sự chênh lệch lãi suất giữa đồng Bảng và đồng euro. Diễn biến này rất có lợi cho đồng Bảng so với đồng euro và đô-la.
Giá của đồng Bảng đã chạm mức 2 đô-la lần đầu tiên v{o ng{y 18 th|ng Tư năm 2007, và vào tháng Mười Một năm 2007, nó chạm mức ấn tượng 2,1161 đô-la lần đầu tiên trong vòng 27 năm. Tuy nhiên, cuộc khủng khoảng trên thị trường bất động sản tại Mỹ năm 2007 đã thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế Anh, điều này có thể thấy rõ nhất qua việc sụt giảm giá trị của đồng Bảng.
Franc Thụy Sỹ (CHF)
Thụy Sỹ là nền kinh tế phát triển duy nhất ở châu Âu không nằm trong Cơ chế đồng tiền chung châu Âu hay Nhóm tám nền kinh tế lớn nhất châu lục này (the Big Eight). Mặc dù quy mô nền kinh tế Thụy Sỹ không lớn, đồng Franc của nước này vẫn là một trong bốn đồng tiền
chính của thế giới, trước hết là bởi hệ thống tài chính ngân hàng đặc thù tại đây
Trong những giai đoạn bất ổn chính trị, c|c nh{ đầu tư vẫn thường lựa chọn đầu tư vào đồng Franc Thụy Sỹ thay vì đồng euro, mặc dù lãi suất đồng Franc gần như ngang bằng so với lãi suất đồng euro. Cặp EURCHF đang duy trì tỷ giá ổn định quanh mức 1,55 từ giữa năm
2003 đến 2006. Nhưng kể từ giữa năm 2006, do những nguyên nh}n có liên quan đến tình hình kinh tế vĩ mô, đồng Franc đ~ tăng gi| trị rất nhiều so với đồng euro.
Chính vai trò truyền thống của một đồng tiền an toàn, không bịt|c động bởi các biến động thị trường đã khiến đồng Franc Thụy Sỹ có độ tin cậy rất cao. Thụy Sỹ cũng là nước luôn có tỷ lệ lạm phát thấp hơn so với phần còn lại của châu Âu. Cũng cần lưu ý rằng luật pháp Thụy Sỹ quy định 40% giá trị đồng tiền cần được đảm bảo bằng vàng dự trữ quốc gia mặc dù chế độ bản vị v{ng, ra đời từ năm 1920, đã trở nên hoàn toàn vô hiệu vào ngày 1 tháng Năm năm 2000.